Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị tăng huyết áp trên bệnh nhân nội trú tại Bệnh viện Đa khoa quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ năm 2021
Mở đầu: Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Tăng huyết áp nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm. Việc kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu sẽ đem lại hiệu quả tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử vong cũng như tàn tật do các bệnh lý...
Lưu vào:
Tác giả chính: | |
---|---|
Đồng tác giả: | |
Định dạng: | Luận án |
Ngôn ngữ: | Vietnamese |
Thông tin xuất bản: |
Đại học Tây Đô
2024
|
Chủ đề: | |
Truy cập trực tuyến: | http://115.74.233.203:81/tailieuso/handle/123456789/2193 |
Từ khóa: |
Thêm từ khóa bạn đọc
Không có từ khóa, Hãy là người đầu tiên gắn từ khóa cho biểu ghi này!
|
Tóm tắt: | Mở đầu: Tăng huyết áp là một bệnh phổ biến trên thế giới cũng như ở Việt
Nam. Tăng huyết áp nếu không được điều trị đúng và đầy đủ sẽ gây ra nhiều
biến chứng nguy hiểm. Việc kiểm soát huyết áp đạt mục tiêu sẽ đem lại hiệu
quả tích cực trong việc giảm tỷ lệ tử vong cũng như tàn tật do các bệnh lý liên
quan đến tăng huyết áp.
Mục tiêu: (1) Khảo sát tỷ lệ bệnh nhân tăng huyết áp điều trị nội trú được chỉ
định thuốc hợp lý (2) Đánh giá kết quả điều trị tăng huyết áp tại Bệnh viện Đa
khoa quận Thốt Nốt.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 400 bệnh án của bệnh nhân được
chẩn đoán tăng huyết áp vô căn (theo ICD 10), có hoặc không có bệnh lý kèm
theo điều trị nội trú tại Khoa Nội, Bệnh viện Đa khoa quận Thốt Nốt. Phương
pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Kết quả: Độ tuổi trung bình của mẫu nghiên cứu là 65,34±12,54 tuổi, 72,0%
là nữ. Đa số bệnh nhân bị tăng huyết áp độ 2, 3 (28,5%, 25,0%) và có tiền sử
tăng huyết áp (70,0%). Tỷ lệ bệnh nhân mắc bệnh kèm chiếm 70,25%, trong
đó đái tháo đường là bệnh kèm hay gặp nhất (28,25%). Trong các phác đồ
điều trị tăng huyết áp, phác đồ đơn trị liệu chiếm 57,25%, các thuốc lựa chọn
nhiều nhất là ức chế thụ thể, chẹn kênh canxi, ức chế men chuyển (39,75%,
38,75% và 34,5%); phác đồ phối hợp 2 thuốc chiếm 34,25% (ức chế thụ thể +
chẹn kênh canxi được sử dụng nhiều nhất 10,0%); chỉ có 0,25% bệnh nhân
được sử dụng phác đồ phối hợp 5 thuốc. Tỷ lệ tương tác thuốc theo lý thuyết
là 53,0%, nhưng trên thực tế không có bệnh nhân nào gặp tương tác bất lợi.
Tỷ lệ được chỉ định thuốc hợp lý là 88,25%. Tỷ lệ bệnh nhân đạt được huyết
áp mục tiêu là 92,75%. Bệnh nhân có tình trạng khi xuất viện được đánh giá
là tốt chiếm 99,25%, trung bình 0,75%, không có bệnh nhân được đánh giá
không tốt.
Kết luận: Tất cả các thuốc hạ áp gặp trong mẫu nghiên cứu đều nằm trong
danh mục thuốc hạ áp theo hướng dẫn của Bộ Y tế, tỷ lệ sử dụng phác đồ đơn
trị cao hơn tỷ lệ sử dụng phác đồ đa trị, tỷ lệ tương tác thuốc-thuốc khá cao
nhưng trên thực tế không có bệnh nhân nào gặp tương tác bất lợi, phần lớn
bệnh nhân được đánh giá là có tình trạng tốt khi ra viện. |
---|